29 tháng 12, 2012

PHÂN TÍCH KỸ THUẬT - BÀI 23 Mô hình 2 đỉnh (Double Top) & 2 đáy (Double Bottom)

Bài 23

 Mô hình 2 đỉnh (Double Top)  & 2 đáy (Double Bottom) 
I.Mô hình 2 đỉnh
Mô hình 2 đỉnh (Double Top) là mô hình đồ thị đảo chiều hình thành sau một xu hướng tăng giá (uptrend) kéo dài. Như ý nghĩa ám chỉ từ tên gọi, mô hình này bao gồm 2 đỉnh kế tiếp nhau mà dường như cao bằng nhau với một vùng đáy thấp giống thung lũng ở giữa.

Dù có thể có những biến thể khác nhau, mô hình 2 đỉnh cổ điển đánh dấu ít nhất một sự thay đổi tức thì về xu hướng từ xu thế tăng (bullish) sang xu thế giảm (bearish). Nhiều mô hình 2 đỉnh tiềm năng có thể hình thành theo một lối cao dần nhưng mãi cho đến khi vùng hỗ trợ quan trọng bị phá vỡ thì sự đảo chiều mới được xác nhận. 

Dưới đây là những điểm quan trọng cần chú ý trong mô hình 2 đỉnh:

(1) Xu hướng trước khi hình thành mô hình 2 đỉnh: Xu thế tăng giá kéo dài vài tháng. Các mô hình 2 đỉnh xuất hiện trong các khung thời gian càng ngắn hơn thì độ tin cậy sẽ càng kém dần.

(2) Đỉnh đầu tiên: Đỉnh đầu tiên đánh dấu điểm cao nhất của xu hướng hiện thời.
(3) Vùng thung lũng giữa 2 đỉnh: Sau đỉnh cao đầu tiên, một đợt sụt giảm xảy ra điển hình điều chỉnh khoảng 10 đến 20% của xu hướng tăng giá trứớc đó tạo thành vùng đáy thung lũng (valley/lows), hình dáng thung lũng có thể bầu tròn hoặc nhọn.


 

(4) Đỉnh thứ 2: Đợt tăng sau thung lũng thường xảy ra với khối lượng giao dịch (volume) thấp và gặp phải vùng kháng cự từ đỉnh đầu tiên. Thời gian giữa 2 đỉnh có thể dao động từ vài tuần đến vài tháng mà tiêu chuẩn là 1 đến 3 tháng. Hai đỉnh có thể cao bằng nhau hoặc đôi khi có mức chênh lệch chút ít.
(5) Đợt giảm giá sau đỉnh thứ 2: Đợt giảm giá sau đỉnh thứ 2 thể hiện sự mở rộng khối lượng giao dịch và tốc độ giảm gia tăng mà minh chứng bằng một hoặc hai khoảng trống giá (gap). Đợt giảm như thế cho thấy sức cầu hơn sức cung và việc test vùng hỗ trợ đang tiềm ẩn.

(6) Sự phá vỡ hỗ trợ: Ngay cản sau khi giá giảm xuống vùng hỗ trợ thì mô hình 2 đỉnh và sự đảo chiều vẫn chưa hoàn thành. Việc phá vỡ vùng hỗ trợ tại điểm thấp nhất giữa 2 đỉnh sẽ hoàn thành mô hình 2 đỉnh. Điều này cũng làm xuất hiện sự gia tăng khối lượng giao dịch.

(7) Vùng hỗ trợ trở thành vùng kháng cự: Vùng hỗ trợ đã bị phá vỡ sẽ trở thành vùng kháng cự và đôi khi có khả năng giá test lại vùng kháng cự mới này bằng một đợt tăng giá phản ứng. Việc giá test như thế có thể tạo cơ hội thứ 2 cho việc thoát một trạng thái giao dịch hoặc bắt đầu vào trạng thái bán khống.

(8) Mục tiêu giá: Khoảng cách từ mức phá vỡ hỗ trợ đến đỉnh có thể được trừ cho mức giá tại điểm phá vỡ (breakout) để có mục tiêu giá (target).

II.Mô hình 2 đáy
Mô hình 2 đáy (Double Bottom) là mô hình đồ thị đảo chiều quan trọng hình thành sau một xu hướng giảm giá (downtrend) kéo dài. Như ý nghĩa ám chỉ từ tên gọi, mô hình này bao gồm 2 đáy kế tiếp nhau mà dường như thấp bằng nhau với một vùng đỉnh tương đối ở giữa 2 đáy.
Dù có thể có những biến thể khác nhau, mô hình 2 đáy cổ điển thường đánh dấu ít nhất một sự thay đổi tức thì về xu hướng từ xu thế giảm (bearish) sang xu thế tăng (bullish). Nhiều mô hình 2 đáy tiềm năng có thể hình thành theo một lối xuống thấp dần nhưng mãi cho đến khi vùng kháng cự quan trọng bị phá vỡ thì sự đảo chiều mới được xác nhận. 

Dưới đây là những điểm quan trọng cần chú ý trong mô hình 2 đáy:

(1) Xu hướng trước khi hình thành mô hình 2 đáy: Xu thế giảm giá kéo dài vài tháng. Các mô hình 2 đáy xuất hiện trong các khung thời gian càng ngắn hơn thì độ tin cậy sẽ càng kém dần.

(2) Đáy đầu tiên: Đáy đầu tiên đánh dấu điểm thấp nhất của xu hướng hiện thời.

(3) Vùng đỉnh giữa 2 đáy: Sau đáy thấp đầu tiên, một đợt tăng giá xảy ra điển hình điều chỉnh khoảng 10 đến 20% của xu hướng giảm giá trước đó tạo thành vùng đỉnh (peak), hình dáng của vùng đỉnh này có thể bầu tròn hoặc nhọn.

 
(4) Đáy thứ 2: Đợt giảm giá sau vùng đỉnh giữa 2 đáy thường xuất hiện với khối lượng giao dịch (volume) thấp và gặp phải vùng hỗ trợ từ đáy đầu tiên. Thời gian giữa 2 đáy có thể dao động từ vài tuần đến vài tháng mà tiêu chuẩn là 1 đến 3 tháng. Hai đáy có thể thấp bằng nhau hoặc đôi khi có mức chênh lệch chút ít.
(5) Đợt tăng giá sau đáy thứ 2: Đợt tăng giá sau đáy thứ 2 thể hiện sự mở rộng khối lượng giao dịch và tốc độ tăng nhanh dần mà minh chứng bằng một hoặc hai khoảng trống giá (gap). Đợt tăng giá như thế cho thấy sức cung hơn sức cầu và việc test vùng kháng cự đang tiềm ẩn.
(6) Sự phá vỡ kháng cự: Ngay sau khi giá tăng lên vùng kháng cự thì mô hình 2 đáy và sự đảo chiều vẫn chưa hoàn thành. Việc phá vỡ vùng kháng cự tại điểm cao nhất giữa 2 đáy sẽ hoàn thành mô hình 2 đáy. Điều này cũng làm xuất hiện sự gia tăng khối lượng giao dịch.
(7) Vùng kháng cự trở thành vùng hỗ trợ: Vùng kháng cự đã bị phá vỡ sẽ trở thành vùng hỗ trợ tiềm năng và đôi khi giá có khả năng giá test lại vùng hỗ trợ mới này bằng một đợt điều chỉnh đầu tiên. Việc giá test như thế có thể tạo cơ hội thứ 2 cho việc đóng một trạng thái bán hoặc bắt đầu vào trạng thái mua.

(8) Mục tiêu giá: Khoảng cách từ mức phá vỡ kháng cự (breakout) đến đáy có thể được cộng với mức giá tại điểm phá vỡ (breakout) để có mục tiêu giá (target).

PHÂN TÍCH KỸ THUẬT - BÀI 22 Giới thiệu khái quát về các mô hình mẫu đồ thị

Bài 22

 Giới thiệu khái quát về các mô hình mẫu đồ thị 

Có hàng trăm nghìn người tham gia thị trường mua và bán các công cụ tài chính vì nhiều lý do khác nhau như kỳ vọng sự tăng giá, sợ bị thua lỗ, tất toán trạng thái bán khống, bảo toàn vốn, dừng lỗ, các yếu tố phân tích cơ bản, phân tích kỹ thuật, những lời đề nghị của nhà môi giới nhà tư vấn và nhiều lý do khác. 

Việc xác định tại sao người tham gia thị trường mua và bán có thể là quá trình đầy kỳ công và nỗ lực. Các mô hình đồ thị đưa tất cả các hoạt động mua bán của nhà đầu tư vào một bức tranh hội tụ tất cả các động lực cung cầu. Các mô hình đồ thị tạo ra khung sườn để phân tích cuộc chiến giữa nhà đầu cơ giá lên và nhà đầu cơ giá xuống. Quan trọng hơn là các mô hình đồ thị có thể giúp nhà đầu tư quyết định ai là người chiến thắng cuộc chiến đó, cho phép nhà đầu tư xác định được trạng thái giao dịch của mình.

Các mô hình đồ thị đơn giản là những phiên bản phức hợp các đường xu hướng. Vấn đề là cần đọc được và hiểu được ý nghĩa các vùng hỗ trợ, vùng kháng cự cũng như các đường xu hướng trước khi nghiên cứu chi tiết.
Mức hỗ trợ (Support level) là mức giá tại đó có đủ một khối lượng cầu mua công cụ tài chính để ngăn chặn xu hướng giảm giá, hoặc có thể tăng giá. Mức kháng cự (Resistance level) là mức giá tại đó có đủ công cụ tài chính cung ra để ngăn chặn xu hướng tăng giá. Vậy vùng hỗ trợ thể hiện sự tập trung của cầu và vùng kháng cự thể hiện sự tập trung của cung. 
Thứ cần phải xem xét đầu tiên trong khi nhìn vào bất cứ thị trường nào là hướng của xu thế dài hạn (long term trend). Giá chỉ có thể đi theo 3 xu hướng: xu hướng lên (uptrend), xu hướng xuống (downtrend) và xu hướng dạt ngang hoặc không rõ xu hướng (sideways/ nontrend). Một đường nối dài những khu vực giá cả đưa ra cho bạn một kiểu thị trường. Nhìn chung sẽ có rất nhiều chỗ lõm xuống (dips) và những chỗ trồi lên (bumps) dọc đường đó nhưng cần nhận thức một hướng chung lên, xuống hoặc dạt ngang 2 bên. Chúng ta có thể nhận ra xu hướng bằng cách vẽ các đường xu hướng (trendline). 



Trong một xu hướng tăng giá, đường xu hướng tăng (upward trendline) được vẽ bằng cách nối những đáy thấp nhất liên tiếp nhau và thường 3 điểm ta vẽ được đường xu hướng, vẽ qua càng nhiều điểm thì đường xu hướng càng chính xác. Đường xu hướng tăng cho biết thị trường sẽ tiếp tục với xu hướng đó cho đến khi xu hướng đó bị gãy (breakout). Trong xu hướng tăng giá, các cơ hội mua xảy ra khi đường giá nằm trên đường xu hướng này. Đường xu hướng tăng giá nhằm giúp đỡ nhà đầu tư kiểm tra lại tín hiệu mua của thị trường bằng dấu hiệu: đường giá di chuyển gần sát hay phía dưới đường xu hướng tăng và sau đó hồi phục và chuyển động theo hướng lên trên đường xu hướng tăng. Ngược lại nếu đường xu hướng tăng bị gãy thì nó sẽ cho tín hiệu bán khi đường giá cắt qua đường xu hướng hướng tăng và có hướng đi xuống. 
Trong một xu hướng giảm giá, đường xu hướng giảm (downward trendline) được vẽ dọc các đỉnh của 2 khu vực kháng cự dễ nhận ra, nối càng nhiều điểm thì đường xu hướng này càng chính xác. Đường xu hướng giảm cho biết thị trường tiếp tục xu hướng đó cho đến khi xu hướng đó bị gãy, khi giá nằm phía dưới đường xu hướng và chuyển động vượt qua đường xu hướng,.
Phân tích các mô hình đồ thị có thể được sử dụng để dự báo xu hướng ngắn hạn và dài hạn. Dữ liệu giá có thể là trong ngày (đồ thị 8 giờ, 4 giờ, 2 giờ, 1 giờ, 30 phút …), theo ngày (đồ thị ngày), theo tuần (đồ thị tuần) hoặc theo tháng (đồ thị tháng) và các mô hình đồ thị có thể kéo dài trong một ngày hoặc thậm chí nhiều năm. 
Hai yếu tố cơ bản của phân tích kỹ thuật là xu hướng giá vàng lịch sử tự nó lặp lại. Một xu hướng tăng giá (uptrend) cho biết sức cầu (nhà đầu cơ giá lên) đang giành sự kiểm soát và một xu hướng giảm giá (downtrend) cho biết sức cung (nhà đầu cơ giá xuống) đang giành sự kiểm soát. Tuy nhiên giá không theo một xu hướng mãi mãi và cán cân sức mạnh sẽ thay đổi, và từ đó một mô hình đồ thị sẽ xuất hiện. Một số mô hình đồ thị như kênh giá song song (Parallel channel), thể hiện một xu hướng mạnh. Tuy nhiên phần lớn các mô hình đồ thị phân thành 2 nhóm: nhóm đảo chiều (reversal) và nhóm tiếp tục xu hướng (continuation). Các mô hình đồ thị đảo chiều cho biết sự thay đổi xu hướng theo chiều ngược lại. Các mô hình đồ thị tiếp tục xu hướng cho biết sự tạm dừng xu hướng và báo hiệu xu hướng trước sẽ tiếp tục sau một khoảng thời gian.
Vì một mô hình đồ thị hình thành sau một đợt tăng giá hoặc giảm giá đáng kể nên không có nghĩa nó là mô hình đảo chiều. Nhiều mô hình như mô hình đồ thị hình chữ nhật (Rectangle) chẳng hạn, có thể được phân loại là mô hình đảo chiều hoặc tiếp tục xu hướng. Nhiều mô hình phụ thuộc vào dao động giá trước đó, khối lượng giao dịch (volume) và các chỉ báo khác khi mô hình phát triển. Đây chính là nơi khoa học phân tích kỹ thuật trở thành nghệ thuật phân tích kỹ thuật.



28 tháng 12, 2012

PHÂN TÍCH KỸ THUẬT - BÀI 21 - Chỉ báo Bollinger Bands

Bài 21

 Chỉ báo Bollinger Bands

1. Khái niệm chỉ báo Bollinger Bands:

Dải Bollinger (Bollinger Bands) là công cụ kỹ thuật đa năng kết hợp giữa các đường trung bình động (Moving Average) và độ lệch chuẩn (Standard Deviation) và là một trong những công cụ phân tích kỹ thuật phổ biến nhất đối với nhà đầu tư. Dải Bollinger do nhà phân tích kỹ thuật John Bollinger phát minh vào thập niên 1980.

Có 3 thành phần cơ bản trong chỉ báo Bollinger Bands:

1. Đường trung bình động (Moving Average): sử dụng đường trung bình động giản đơn (SMA) mặc định 20 kỳ/phiên: SMA 20.

2. Dải băng trên (Upper Band): dải trên thường có độ lệch chuẩn là 2, được tính toán từ dữ liệu giá đóng cửa 20 kỳ/phiên, nằm trên đường trung bình SMA 20.

3. Dải băng dưới (Lower Band): dải dưới thường có độ lệch chuẩn là 2 và nằm dưới đường trung bình SMA 20.



 

Cơ sở của dải Bollinger là giá cả có xu hướng dao động trong một khoảng giới hạn nhất định. Do đó John Bollinger đã phát triển ra một dải gồm 3 đường trên cùng đồ thị giá của cổ phiếu: Đường trung bình động giản đơn nằm ở chính giữa và hai dải giới hạn trên và dưới với độ lệch chuẩn là 2 so với đường trung bình động giản đơn. Vì độ lệch tiêu chuẩn là thước đo độ dao động, nên các dải cũng tự điều chỉnh: mở rộng trong các thị trường dao động mạnh và thu hẹp trong các thị trường ổn định hơn.

2. Những đặc tính của dải Bollinger:
  • Giá nhìn chung có xu hướng dao động bên trong các dải.
  • Khi các dải thu hẹp lại, có khả năng sẽ xảy ra sự thay đổi giá mạnh .
  • Khi giá chuyển động ra ngoài và bám theo biên các dải hàm ý rằng xu thế hiện tại có thể tiếp tục.
  • Các đỉnh và đáy được hình thành bên ngoài các dải được theo sau bởi các đỉnh và đáy bên trong dải chính là các tín hiệu đảo chiều của xu thế.
  • Một chuyển động của giá bắt nguồn từ một dải thì sẽ có xu hướng đi tới dải kia.
3. Cách tính toán:

Về cách tính toán và vẽ đồ thị, dải băng Bollinger sử dụng độ lệch chuẩn và được vẽ bởi hai đường đồ thị trên cùng đồ thị giá của công cụ tài chính: một đường gọi là dải băng trên (upper band) và một đường gọi là dải băng dưới (lower band): 

Dải băng trên được vẽ bởi giá công cụ tài chính cộng với độ lệch chuẩn. 

Dải băng dưới được vẽ bởi giá công cụ tài chính trừ đi độ lệch chuẩn. 

Cách tính:

Dải ở giữa là trung bình trượt giản đơn. Trong công thức dưới đây, “n” là số thời kì của đường trung bình động (ví dụ: 20 ngày).



Dải trên được tính tương tự như dải giữa, nhưng được dịch chuyển lên trên một số lần độ lệch chuẩn (ví dụ:hai lần độ lệch tiêu chuẩn). Trong công thức dưới đây, “D” là số lần độ lệch tiêu chuẩn.
Dải dưới là trung bình động được dịch chuyển xuống dưới một số lần độ lệch chuẩn (ví dụ: “D”).

 

Bollinger gợi ý sử dụng tham số 20 cho đường trung bình động (dải giữa) và sử dụng 2 lần độ lệch chuẩn (dải trên và dải dưới). Ông cũng thấy rằng trung bình động với tham số ít hơn 10 sẽ không hoạt động hiệu quả.

4. Ý nghĩa: 
Khi sức tăng của giá quá mạnh, cầu lớn hơn cung nhiều, giá công cụ tài chính sẽ vượt quá băng trên (upper band). Nếu giá công cụ tài chính liên tục nằm trên dải băng trên thì điều này có nghĩa là sức tăng giá của cổ phiếu vẫn rất mạnh và được khẳng định chắc chắn. 

Khi sức giảm của giá quá mạnh, cung lớn hơn cầu nhiều, giá công cụ tài chính sẽ đi thấp hơn băng dưới (lower band). Nếu giá công cụ tài chính liên tục nằm dưới dải băng dưới thì điều này có nghĩa là sức giảm giá của công cụ tài chính vẫn rất mạnh và được khẳng định chắc chắn. 

Nếu giá công cụ tài chính vượt ra ngoài dải băng bollinger rồi trở lại vào trong dải băng ngay sau đó thì đây là tín hiệu cảnh báo về sự suy giảm sức mạnh của tăng hoặc giảm giá khi sự tăng hoặc giảm giá đã đạt đến sự căng thẳng quá mức. Điều này giống như sự bùng phát cuối cùng rồi lịm dần của sự sống vào thời điểm hấp hối. 


5. Các tín hiệu mua bán:

Dựa vào giá vượt ra ngoài dải bollinger: khi giá công cụ tài chính vượt ra ngoài dải Bollinger và tiếp tục nằm ở ngoài dải thì xu thế tăng hoặc giảm giá hiện tại sẽ tiếp tục: 

- Nếu giá nằm quá dải trên (upper band) và kéo dài liên tục thì tín hiệu này khẳng định xu thế tăng sẽ tiếp tục tăng mạnh. Đồng thời khả năng đảo chiều cũng dễ xảy ra và thường cho tín hiệu bán. 


 

- Nếu giá nằm dưới dải dưới (lower band) và kéo dài liên tục thì tín hiệu này khẳng định xu thế giảm sẽ tiếp tục giảm mạnh. Đồng thời khả năng đảo chiều cũng dễ xảy ra và thường cho tín hiệu mua. 


 

Dựa vào giá vượt ra ngoài dải bollinger rồi quay trở lại nằm trong dải: 

- Nếu giá công cụ tài chính vượt quá dải trên (upper band) rồi sau đó thiết lập một đỉnh giá khác nằm trong dải Bollinger thì tín hiệu này cảnh báo sự chấm dứt xu thế tăng giá hiện tại và chuyển sang xu thế giảm hoặc dập dềnh. Tín hiệu này sẽ là cảnh báo đảo chiều sang giảm (cho tín hiệu bán) và được khẳng định chắc chắn hơn nếu sau đó giá công cụ tài chính rớt xuống dưới đường trung bình động tương ứng của dải băng Bollinger. 


 

- Nếu giá công cụ tài chính xuống dưới dải dưới (lower band) rồi sau đó thiết lập một đáy giá khác nằm trong dải Bollinger thì tín hiệu này cảnh báo sự chấm dứt xu thế giảm giá hiện tại và chuyển sang xu thế tăng hoặc dập dềnh. Tín hiệu này sẽ là cảnh báo đảo chiều sang tăng (cho tín hiệu mua) và được khẳng định chắc chắn hơn nếu sau đó giá công cụ tài chính vượt lên trên đường trung bình động tương ứng của dải băng Bollinger. 



 

Tuy nhiên để có kết luận chính xác hơn về các dấu hiệu đảo chiều này, cần phải có sự kết hợp với các phương pháp phân tích khác.



PHÂN TÍCH KỸ THUẬT - BÀI 20 Chỉ báo Williams %R

Bài 20

 Chỉ báo Williams %R

1. Khái niệm chỉ báo Williams %R:

Chỉ báo Williams %R được phát triển bởi Larry Williams để thể hiện các mức siêu mua và siêu bán. Chỉ báo khá giống với chỉ báo Stochastic %K, chỉ khác Williams %R sử dụng các giá trị âm dao động từ 0 đến -100.
Số kỳ được dùng để tính Williams %R có thể khác nhau theo khung thời gian giao dịch. Một quy tắc chuẩn là sử dụng nửa chiều dài chu kỳ (14 ngày là con số phổ biến cho chu kỳ trung hạn).

Các mức siêu mua và siêu bán thường được xác định lần lượt tại -20 và -80.

2. Công thức tính Williams %R:

1. Bước đầu tiên là xác định số kỳ (kỳ %R) được dùng khi tính toán. Số kỳ có thể nằm giữa 5 và 21 tùy theeo khung thời gian phân tích.

2. Tính %R, bằng cách so sánh giá đóng cửa gần nhất với biên độ dao động qua kỳ đã chọn:

HC = Giá cao nhất (High) cao nhất trong kỳ %R – Giá đóng cửa (Close) hôm nay

HL = Giá cao nhất (High) cao nhất trong kỳ %R - Giá thấp nhất (Low) thấp nhất trong kỳ %R

%R = HC / HL * -100

Công thức tính này tương tự như tính Stochastic %K, chỉ khác là CL (ở Stochastic %K) được thay bằng HC.

CL = Giá đóng cửa (Close) hôm nay - Giá thấp nhất (Low) thấp nhất trong kỳ %K

3. Tín hiệu giao dịch:

a. Đối với thị trường không rõ xu hướng:

- Mua khi có sự phân kỳ tăng giá hoặc khi Williams %R giảm xuống dưới mức siêu bán.

- Bán khi có sự phân kỳ giảm giá hoặc khi Williams %R tăng trên mức siêu mua.

b. Đối với thị trường có xu hướng rõ ràng:

- Mua khi %R giảm xuống dưới mức siêu bán rồi tăng lên trên mức -50.

 
- Bán khi %R tăng lên trên mức siêu mua rồi giảm xuống dưới mức -50.
Sử dụng kết hợp một chỉ báo xu hướng khác để thoát trạng thái.

PHÂN TÍCH KỸ THUẬT - BÀI 19 Chỉ báo Dao động ngẫu nhiên (Stochastic Oscillator)

Bài 19

Chỉ báo Dao động ngẫu nhiên (Stochastic Oscillator)

1. Khái niệm chỉ báo Stochastic
Chỉ báo Stochastic được phát triển bởi Tiến sỹ George Lane dùng để theo dõi xung lượng thị trường.
Chỉ báo này bao gồm 2 đường:
- Đường % K so sánh giá đóng cửa gần nhất với biên độ giao dịch gần đây.
- Đường %D là đường tín hiệu được tính bằng giá trị %K mượt (smooth).

Số kỳ được sử dụng trong chỉ báo này có thể khác nhau theo mục đích mà chỉ báo Stochastic được sử dụng:

 
2. Công thức tính Stochastic:
1. Bước đầu tiên là xác định số kỳ (kỳ %K). Kỳ tiêu chuẩn là 5 (ngày) nhưng con số này cần dựa trên khung thời gian phân tích.
2. Bước thứ hai là tính %K, bằng cách so sánh giá đóng cửa gần nhất với biên độ giao dịch qua kỳ đã chọn:
CL = Giá đóng cửa (Close) hôm nay – Giá thấp nhất (Low) thấp nhất trong kỳ %K Lowest Low

HL = Giá cao nhất (High) cao nhất trong kỳ %K - Giá thấp nhất (Low) thấp nhất trong kỳ %K

%K = CL / HL *100

3. Bước thứ ba là tính %D bằng %K mượt. Công thức gốc sử dụng đường SMA 3 nhưng phép tính này có thể khác nhau dựa trên khung thời gian phân tích khác nhau.

3. Thiết lập thông số:
Thông số mặc định của chỉ báo Stochastic được thiết lập như sau:
•%K - 5 (ngày…)
•%D - 3 (ngày…)
• Cả 2 giá trị trên được tính sử dụng đường trung bình động giản đơn (SMA).
• mức siêu mua 70%
• mức siêu bán 30%
4. Tín hiệu giao dịch:
Nếu Stochastic đến gần mức 100 thì nó báo hiệu sự tích lũy của thị trường. Nếu nó đi xuống gần mức 0 thì nó báo hiệu sự phân phối của thị trường.
Stochastic có dạng đáy cho thấy khả năng phục hồi của giá. Một dạng đáy hẹp nhưng không sâu cho thấy nhà đầu cơ giá lên yếu ớt và theo sau đó là đà tăng giá mạnh. Một dạng đáy rộng và sâu cho thấy nhà đầu cơ giá xuống mạnh và khả năng đà tăng sẽ yếu.

Tương tự đối với Stochastic có dạng đỉnh hẹp thường cho thấy nhà đầu cơ giá lên yếu và khả năng điều chỉnh khả thi. Các dạng đỉnh cao và rộng thì cho thấy nhà đầu cơ giá lên mạnh và khả năng điều chỉnh ở mức yếu.
a. Đối với thị trường không rõ xu hướng:

Các tín hiệu giao dịch được liệt kê theo mức độ quan trọng của chúng:

* Tín hiệu mua:
1. Mua khi có sự phân kỳ tăng giá đối với đường %D tại đó phần đáy đầu tiên nằm dưới mức siêu bán.

2. Mua khi đường %K hoặc đường %D giảm xuống dưới mức siêu bán rồi tăng trở lại trên mức đó.
3. Mua khi đường %K cắt lên trên đường %D.

 

* Tín hiệu bán:

1. Bán khi có sự phân kỳ giảm giá đối với đường %D tại đó phần đỉnh đầu tiên nằm trên vùng siêu mua.

2. Bán khi đường %K hoặc đường %D tăng lên trên mức siêu mua rồi giảm trở lại dưới mức đó.
3. Bán khi đường %K cắt xuống dưới đường %D.

Đặt dừng lỗ dưới mức đáy gần nhất của giá khi vào lệnh mua hoặc trên mức đỉnh gần nhất khi vào lệnh bán.

Các đường %K và %D chạy theo cùng hướng được sử dụng để xác nhận xu hướng ngắn hạn.

b. Đối với thị trường có xu hướng rõ ràng:

Chỉ sử dụng các tín hiệu theo hướng của xu hướng thị trường và không bao giờ mua khi Stochastic ở vùng siêu mua hoặc bán khi Stochastic ở vùng siêu bán. 

Mua khi %K hoặc %D giảm xuống dưới đường siêu bán và bán khi %K hoặc %D tăng lên trên đường siêu mua.



PHÂN TÍCH KỸ THUẬT - BÀI 18 - Chỉ báo Xung lượng (Momentum)

Bài 18

Chỉ báo Xung lượng (Momentum)

1. Khái niệm chỉ báo Momentum

Chỉ báo Momentum (xung lượng) đo lường tỷ lệ thay đổi về giá đóng cửa và được sử dụng để nhận biết sự suy yếu xu hướng và những điểm đảo chiều có thể xảy ra. Chỉ báo này thường được đánh giá thấp vì sự đơn giản của nó.
  
Giá trị Momentum cao xuất hiện khi một xu hướng đang ở vị thế mạnh nhất. Giá trị Momentum thấp hơn thường thấy tại đầu hoặc cuối một xu hướng.

Các mức siêu mua (Overbought) và siêu bán (Oversold) được thiết lập khác nhau cho mỗi công cụ đầu tư khác nhau.

2. Công thức tính Momentum:

Momentum được tính như sau:
  
Momentum = giá đóng cửa hôm nay – giá đóng cửa cách đây n ngày

Ví dụ:


 
3. Tín hiệu giao dịch:

a. Thị trường không rõ xu hướng:

Cần phải thiết lập các mức siêu mua và siêu bán cho chỉ báo và các mức này cần phải cắt ít nhất 2/3 phần các điểm đỉnh và điểm đáy của chỉ báo.
- Mua khi Momentum cắt xuống dưới mức siêu bán rồi tăng trở lại trên mức đó hoặc dựa vào sự phân kỳ tăng giá nơi mà phần đáy đầu tiên của chỉ báo nằm dưới vùng siêu bán.


 


- Bán khi Momentum cắt lên trên mức siêu mua rồi giảm trở lại dưới mức đó hoặc dựa trên sự phân kỳ giảm giá nơi mà phần đỉnh đầu tiên của chỉ báo nằm trên mức siêu mua.

b. Thị trường có xu hướng:

Momentum có xu thế nằm trên mức zero (có phần mềm sử dụng 100 là mức chuẩn) trong một xu hướng tăng giá và nằm dưới mức zero trong một xu hướng giảm giá.

- Trong một xu hướng tăng giá, mua nếu Momentum nằm dưới mức zero rồi chạy lên.
  
- Trong một xu hướng giảm giá, bán khi Momentum nằm trên mức zero rồi chạy xuống.


Các đường xu hướng cũng được vẽ lên chỉ báo Momentum. Một sự phá vỡ đường xu hướng thường xảy ra trước một sự phá vỡ tương tự trên đồ thị giá.


Chốt lời dựa trên sự phân kỳ và sự phá vỡ đường xu hướng.


Nhìn chung chỉ báo này chỉ nên tham khảo, không nên áp dụng vào thực tế vì tính hiệu quả kém rất nhiều so với các chỉ báo khác.